Nuôi động vật hoang dã đang mở ra cơ hội làm giàu ở nông thôn, mang lợi nhuận cao và góp phần bảo tồn thiên nhiên. Nhưng song hành với tiềm năng ấy là rủi ro dịch bệnh, vốn đầu tư lớn và yêu cầu quản lý nghiêm ngặt để bảo đảm an toàn và phát triển bền vững.
Kinh tế nông thôn vươn tầm nhờ nuôi động vật hoang dã
Trong bức tranh chuyển dịch nông nghiệp Việt Nam, nuôi động vật hoang dã nổi lên như một hướng đi mới mẻ nhưng đầy tiềm năng. Ở các vùng nông thôn, nơi đất đai và nguồn thức ăn tự nhiên dồi dào, mô hình này trở thành lựa chọn sinh kế thay thế cho trồng trọt, chăn nuôi truyền thống vốn chịu rủi ro lớn về thị trường và dịch bệnh.
Theo các chuyên gia kinh tế nông nghiệp, những loài có giá trị thương phẩm cao như chồn hương, dúi, hay tắc kè mang lại biên lợi nhuận vượt trội. Với giá bán chồn hương trưởng thành dao động từ 5–7 triệu đồng/kg, hay dúi thương phẩm gần 1 triệu đồng/kg, các hộ nuôi có thể đạt lợi nhuận gấp nhiều lần so với chăn nuôi lợn, gà. Không ít gia đình từ thu nhập bấp bênh đã vươn lên thành hộ khá giả, thậm chí thu tiền tỷ mỗi năm nhờ đầu tư bài bản vào chuồng trại, kỹ thuật chăm sóc và liên kết đầu ra.
Điển hình như mô hình nuôi động vật hoang dã của chị Nguyễn Thị Lệ tại xã Phượng Dực (Hà Nội) khởi đầu với vài cặp dúi giống, nay đã phát triển trang trại nuôi hàng nghìn con dúi, tắc kè và chồn hương trên diện tích hơn 1.000 m². Mỗi năm, trang trại của chị cung cấp cho thị trường hàng chục nghìn con giống và mang lại doanh thu hàng tỷ đồng, minh chứng rõ ràng cho tiềm năng kinh tế lớn của mô hình khi được tổ chức bài bản.
Không chỉ dừng ở lợi nhuận, nuôi động vật hoang dã còn đóng vai trò như một “vành đai sinh thái” tự nguyện. Thay vì săn bắt trong tự nhiên – nguyên nhân chính khiến nhiều loài bị đe dọa – việc chủ động nhân nuôi giúp giảm đáng kể áp lực lên quần thể tự nhiên. Các nhà bảo tồn đánh giá, khi nhu cầu thị trường được đáp ứng bằng nguồn nuôi có kiểm soát, rủi ro tuyệt chủng của nhiều loài như chồn hương hay ba ba giảm rõ rệt. Đây là ví dụ điển hình cho mô hình kinh tế xanh, kết hợp phát triển sinh kế với bảo tồn đa dạng sinh học – mục tiêu mà Việt Nam cam kết theo các hiệp định môi trường quốc tế.
Theo Cục Lâm nghiệp và Kiểm lâm, hiện cả nước có khoảng 8.600 cơ sở nuôi thương mại động vật hoang dã đã đăng ký. Con số này không chỉ phản ánh sự gia tăng nhu cầu thị trường mà còn cho thấy mức độ quan tâm và học hỏi giữa các hộ dân. Các mô hình thành công thường nhanh chóng tạo hiệu ứng lan tỏa. Nông dân tìm đến tham quan, học hỏi kỹ thuật chuồng trại, cách phối trộn thức ăn, quy trình phòng bệnh. Từ đó, những chuỗi sản xuất – tiêu thụ có tổ chức dần hình thành, mang lại lợi ích kinh tế tập thể và tạo việc làm tại chỗ, hạn chế dòng người di cư khỏi nông thôn.
Một số địa phương còn kết hợp mô hình nuôi với du lịch trải nghiệm. Du khách có thể tham quan, cho ăn và tìm hiểu đời sống của các loài vật, tạo thêm nguồn thu cho hộ nuôi đồng thời nâng cao nhận thức cộng đồng về bảo vệ động vật hoang dã. Hình thức “nông trại trải nghiệm” này đang trở thành điểm nhấn du lịch xanh, bổ sung giá trị dịch vụ cho nền kinh tế nông thôn.
Từ những câu chuyện thực tế và dữ liệu ngành, có thể thấy nuôi động vật hoang dã đang trở thành một mô hình chăn nuôi mới của Việt Nam. Mô hình này hội tụ ba giá trị: lợi nhuận – bảo tồn – lan tỏa cộng đồng.
Rủi ro dịch bệnh và quản lý pháp lý
Tuy mô hình nuôi động vật hoang dã đang mở ra hướng làm giàu mới cho nông dân, song các chuyên gia cảnh báo, lợi nhuận hấp dẫn đi kèm với áp lực quản lý phức tạp và rủi ro khó lường. Khác với gia súc, gia cầm đã có quy trình phòng bệnh chuẩn, nhiều loài hoang dã vẫn chưa có vaccine đặc trị hoặc phác đồ điều trị chính thức, khiến việc kiểm soát dịch bệnh khó khăn hơn nhiều.
PGS.TS Lê Thanh Hiền (Đại học Nông Lâm) nhấn mạnh: “Chỉ một ổ dịch nhỏ cũng có thể gây thiệt hại nặng nề, làm mất vốn đầu tư và uy tín của cả vùng nuôi. Trong điều kiện nuôi tập trung, nguy cơ lây lan sang các loài khác hoặc ra cộng đồng là không thể xem nhẹ”.
Thực tế, khi dịch bệnh bùng phát, không chỉ đàn vật nuôi bị ảnh hưởng mà cả chuỗi cung ứng cũng dễ tê liệt, khiến đầu ra tiêu thụ chững lại. Đây là thách thức lớn nhất mà các hộ nuôi phải đối mặt, đặc biệt với những loài có giá trị cao nhưng nhạy cảm về sức khỏe.
Bên cạnh nguy cơ dịch bệnh, rào cản vốn và kỹ thuật cũng là trở ngại không nhỏ. Nuôi động vật hoang dã không đơn giản là “thả nuôi và chờ thu hoạch”. Chi phí đầu tư cho chuồng trại kiên cố, lưới rào an toàn, hệ thống thoát nước và khu cách ly thường cao hơn nhiều so với chăn nuôi truyền thống. Mỗi loài lại có tập tính sinh học, nhu cầu dinh dưỡng và sinh sản khác nhau. Không ít hộ dân vì thiếu kiến thức hoặc bỏ qua giai đoạn học hỏi đã “đốt vốn” hàng chục đến hàng trăm triệu đồng mà không thu được lợi nhuận, thậm chí thua lỗ nặng.
Thách thức pháp lý và quản lý nguồn gốc cũng là điểm nghẽn đáng chú ý. Mặc dù nhiều cơ sở đã đăng ký với chính quyền, nhưng việc giám sát vẫn còn lỏng lẻo. Tại Hội thảo “Nuôi động vật hoang dã an toàn sinh học" do Mạng lưới Một Sức khỏe Việt Nam (VOHUN) tổ chức đại diện Chi cục Kiểm lâm Đồng Nai cảnh báo: “Nếu không kiểm soát nghiêm ngặt, mô hình nuôi có thể bị lợi dụng để hợp pháp hóa việc khai thác và buôn bán động vật hoang dã trái phép. Với những loài nguy hiểm như rắn độc hay cá sấu, chỉ cần sơ suất nhỏ cũng có thể đe dọa tính mạng cộng đồng.” Chính những khoảng trống này khiến nhiều địa phương còn dè dặt trong việc khuyến khích mở rộng mô hình.
Ngoài khía cạnh kinh tế, nuôi động vật hoang dã còn kéo theo hệ lụy về bảo tồn và an toàn sinh học. Nếu thiếu quy hoạch, việc nuôi tràn lan có thể làm suy giảm quần thể tự nhiên do khai thác con giống trái phép, đồng thời tạo áp lực quản lý mới cho ngành kiểm lâm. Nguy cơ thoát vật nuôi ra môi trường, đặc biệt với loài ngoại lai hoặc có độc, cũng có thể gây xáo trộn hệ sinh thái bản địa.
Xây dựng mạng lưới giám sát dịch bệnh để phát triển bền vững
Thách thức lớn nhất hiện nay là làm sao đưa hoạt động nuôi và quản lý động vật hoang dã vào mạng lưới giám sát dịch bệnh quốc gia một cách bài bản, bền vững. Nếu thiếu cơ chế kiểm soát, các ổ dịch từ động vật hoang dã có thể bùng phát bất kỳ lúc nào và nhanh chóng lây lan ra cộng đồng.
Để khắc phục, Tổ chức Thú y Thế giới (WOAH) khuyến nghị các quốc gia có mức độ đa dạng sinh học cao như Việt Nam cần sớm xây dựng mạng lưới giám sát mầm bệnh trên động vật hoang dã cả tại nơi cư trú tự nhiên (in-situ) và trong môi trường nuôi nhốt (ex-situ). Báo cáo cũng đề xuất tích hợp dữ liệu từ kiểm lâm, thú y và y tế vào một nền tảng phân tích dịch tễ thống nhất, đồng thời ban hành quy định bắt buộc báo cáo ca bệnh và đào tạo đội ngũ thú y chuyên sâu về động vật hoang dã.
Thực tế cho thấy Việt Nam vẫn thiếu nhiều điều kiện căn bản: chưa có cơ sở dữ liệu sức khỏe động vật hoang dã, không có ngân sách ổn định cho giám sát thú y tại vườn quốc gia, và cũng chưa ban hành chính sách kiểm tra sức khỏe định kỳ cho các trại nuôi. PGS.TS Lê Thanh Hiền nhấn mạnh: “Muốn xóa khoảng trống này, trước hết cần xác định rõ ai đang nuôi, đang chăm và đang quản lý động vật hoang dã, từ đó thiết lập hệ thống hỗ trợ kỹ thuật, báo cáo và kiểm tra định kỳ".
Các chuyên gia cũng đề xuất giải pháp cụ thể: mỗi cơ sở nuôi nhốt phải có bác sĩ thú y giám sát dịch bệnh, theo dõi sức khỏe đàn vật nuôi và báo cáo thường xuyên cho cơ quan quản lý. Song song đó, Việt Nam cần một khung pháp lý mới. Hiệp hội Bảo tồn Động vật Hoang dã (WCS) khuyến nghị ban hành Thông tư riêng về giám sát dịch bệnh trên động vật hoang dã, tương tự quy định tiêm phòng và kiểm dịch đối với gia súc, gia cầm, quy định rõ trách nhiệm, quy trình và chế tài.
Nguồn nhân lực cũng là điểm yếu. Hiện cả nước chỉ có rất ít bác sĩ thú y được đào tạo chuyên sâu về các loài như khỉ, tê tê, dơi, vượn, trong khi số phòng thí nghiệm đủ năng lực phân tích mẫu từ động vật hoang dã còn hạn chế. Nếu không có đầu tư dài hạn, việc phát hiện sớm dịch bệnh vẫn khó trở thành hiện thực.
PGS.TS Lê Thanh Hiền cảnh báo: “Nhiều loài bị cấm nuôi, song cũng có loài được phép và quản lý. Rủi ro lớn nhất nằm ở việc cấp phép nuôi động vật có nguồn gốc hoang dã gần các vật nuôi truyền thống như gà, bò, heo… Khi xảy ra sự cố, hậu quả có thể rất nghiêm trọng. Chưa kể, những cơ sở nuôi để phục vụ giải trí khó bảo đảm an toàn sinh học".
Các chuyên gia khẳng định, dịch bệnh từ động vật hoang dã không phải là “nếu” mà là “khi nào”. Do đó, từng sáng kiến - từ trạm cứu hộ có năng lực giám sát đến cơ sở tư nhân biết chủ động báo cáo dấu hiệu bệnh – đều là những viên gạch quan trọng góp phần thu hẹp khoảng trống phòng dịch và bảo vệ an toàn cộng đồng./.
Nguồn: DNKTX
Thống đốc Ngân hàng Nhà nước được yêu cầu báo cáo Thủ tướng tình hình giá vàng, lãi suất, tín dụng bất động sản và đề xuất giải pháp quản lý trước ngày 14/9.
Thủ tướng Phạm Minh Chính nhấn mạnh phải phát triển thị trường vàng theo Nghị định 232 và thúc đẩy nâng hạng thị trường chứng khoán.
Sáng 13/9, giá vàng thế giới được niêm yết trên Kitco ở ngưỡng 3.651 USD/ounce, tăng 15,8 USD so với đầu giờ sáng qua.
Lúc 6h ngày 13/9, giá dầu WTI đứng ở mức 62,69 USD/thùng, tăng 0,32 USD/thùng, trong khi giá dầu Brent của Mỹ đứng ở mức 66,88 USD/thùng, tăng 0,51 USD/thùng.
"Không thể có một nền kinh tế sáng tạo nếu thương hiệu Việt vẫn dễ bị đánh cắp. Không thể có vị thế quốc gia nếu tài sản trí tuệ, sức mạnh mềm của quốc gia không được bảo vệ xứng tầm" - luật sư Mai Thị Thảo cho hay.